Số 30 (4344) Thứ Năm (25/7/2024) 16 CHUYỆN ĐỜI KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH – LIỆT SĨ (27/7/1947-27/7/2024) Xúc động gặp tác giả “Cúc ơi” - Chứng tích huyền thoại Ngã ba Đồng Lộc MAI LOAN Từng thi thể các cô gái Ngã ba Đồng Lộc được đưa ra, chỉ có Cúc là chưa tìm thấy. Đau xót, nghẹn ngào, nhà thơ Yến Thanh đã viết “Cúc ơi” trong nghẹn ngào nước mắt: “Tiểu đội đã xếp một hàng ngang/Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp”… “Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần/ Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng/Cúc ơi! em ở đâu?/Đất nâu lạnh lắm”, những câu thơ nghẹn lòng trong “Cúc ơi” của tác giả Yến Thanh đã trở thành “chứng tích” về những năm tháng đau thương mà hào hùng của dân tộc. Những vần thơ viết trong nước mắt Trong cuộc trò chuyện xúc động với PV Khoa học và Đời sống/ Tri thức và Cuộc sống, ngay trước ngày kỷ niệm 56 năm ngày mất của 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc và Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7), nhà thơ Yến Thanh cho hay, cách đây 56 năm, Ngã ba Đồng Lộc được gọi là “Tọa độ lửa”. Từ tháng 4 đến tháng 10/1968, nơi đây phải hứng chịu gần 50.000 quả bom các loại, bình quân mỗi mét vuông đất gánh trên 3 quả bom. Thời điểm đó, nhà thơ Yến Thanh là kỹ sư cầu đường biệt phái sang phụ trách kỹ thuật TNXP tại ngã ba Đồng Lộc. Tiểu đội TNXP (A4-C552-N55-P18) do Võ Thị Tần là A trưởng; và Hồ Thị Cúc là A phó thuộc Đội TNXP - N55 - P18 nơi ông làm cán bộ kỹ thuật. Buổi chiều định mệnh ngày 24/7/1968, đường qua Đồng Lộc tắc, 40 xe bồn loại 4,8m3 chở xăng vào chiến trường đang nằm chờ đường ở bãi giấu xe. Các đơn vị nhận lệnh làm thêm ban ngày để kịp thông xe. Tiểu đội 4 của Võ Thị Tần gồm 16 người, nhưng 6 người được điều chuyển làm việc khác, còn lại 10 người có mặt tại đường 15A cạnh chân núi Trọ Voi làm nhiệm vụ. Hai đợt máy bay Mỹ quần thảo dội bom xuống hiện trường rồi bỏ đi, Tiểu đội 4 sau khi san lấp hố bom xong, ngồi nghỉ giải lao. Đợt thứ ba có ba chiếc phản lực bay từ hướng Lào về, không thả bom mà lượn mấy vòng rồi bay ra biển. Bỗng một chiếc bất ngờ quay trở lại. Tiểu đội 4 nhận lệnh vội vã nhào xuống hào vừa đào trú ẩn. Thế rồi, một quả bom tấn từ máy bay dội xuống, vùi lấp tiểu đội trong phút chốc. Lúc đó là vào 16 giờ. Nghe tin dữ, nhà thơ Yến Thanh cùng đồng đội chạy tới. Không thấy người, chỉ có vài chiếc cuốc, xẻng, mũ nón… rơi vãi bên miệng hố bom. Mọi người vừa đào, vừa khóc, vừa gọi tên từng cô gái. Sau hai tiếng, một mái tóc đen hiện ra trong đất cát. Thân thể chị Võ Thị Tần vẫn còn mềm, ấm nhưng tim đã ngừng đập. Tiếp tục đào bới, mọi người tiếp tục tìm thấy thi thể của chị Nguyễn Thị Xuân, Nguyễn Thị Nhỏ, Võ Thị Hà, Trần Thị Rạng, Trần Thị Hường, rồi tiếp đến là chị Dương Thị Xuân, Võ Thị Hợi và Hà Thị Xanh. 9 thi thể được xếp lên chiếc cáng, xếp một hàng ngang. Riêng Tiểu đội phó Hồ Thị Cúc vẫn không tìm thấy. Đến sáng 25/7/1968, đơn vị nỗ lực đào bới, nhưng cũng chưa tìm được thi thể của chị. Chiều 25/7/1968, nhà thơ Yến Thanh ra nhà C trưởng đơn vị, không khí đau thương bao trùm. 9 chiếc hòm đã được chôn cất, chỉ còn chiếc hòm của liệt sĩ Cúc vẫn còn nằm đó. Ông cảm thấy rất buồn, nghĩ đến cuộc đời của Cúc, phải chịu khổ cực từ khi còn nhỏ. Khi Cúc lên 1 tuổi, cha Cúc và bà nội chết đói trong trận đói năm 1945. Cúc lên 3 tuổi, bà Trinh - mẹ Cúc đi bước nữa. Lên 8 tuổi Cúc đi ở chăn trâu cắt cỏ cho nhà chú mự (tức chú thím). Một lần, mự sẩy tay đổ cả nồi cám lợn đang sôi lên lưng Cúc. O Loan của Cúc đã chữa bỏng và nuôi Cúc 2 năm trời mới lành nhưng để lại một vết sẹo từ vai xuống mông làm da Cúc nhăn nhúm. Những biến cố cuộc đời phản chiếu qua đôi mắt Cúc. Cúc là tiểu đội phó gương mẫu, được chị em rất yêu mến. Tuy nhiên, Cúc luôn buồn, nhất là đôi mắt. Càng nghĩ, nhà thơ Yến Thanh càng thương Cúc, một cuộc đời quá khổ từ lúc còn thơ tới tận lúc mất. Trong lúc cảm xúc dâng trào, ông đã viết bài thơ “Cúc ơi” với những câu thơ trào nước mắt: “Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần/Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng/Cúc ơi! em ở đâu?/Đất nâu lạnh lắm”… Chia sẻ về những câu thơ này, nhà thơ Yến Thanh cho hay, hết buổi sáng ngày Nhà thơ Yến Thanh, tên thật là Nguyễn Thanh Bính (SN 1945, quê ở xã Thạch Vĩnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Ngày 23/12/2023, Bia đá khắc bài thơ “Cúc ơi” được khánh thành trong khu mộ 10 cô gái Ngã Ba Đồng Lộc, đó là niềm vinh dự của nhà thơ. Mỗi năm, ông đều đến thắp hương tại Ngã ba Đồng Lộc. “Khi đến trước mộ Cúc, bát nhang luôn cháy bùng, không biết có phải Cúc muốn nói rằng, Cúc biết tôi biết thăm Cúc hay không”, nhà thơ Yến Thanh xúc động. Nhà thơ Yến Thanh 25/7/1968, khi vẫn chưa tìm thấy Cúc, Ty Giao thông vận tải điều máy ủi đến để hỗ trợ đào tìm. Nhưng chi bộ C552 đã họp, ra nghị quyết cho đơn vị tiếp tục đào bằng tay, không cho phép đào bằng máy vì sợ xâm hại thi thể người đồng đội thân yêu của mình. “Theo tâm lý thông thường, khi đi đào bới người bị lấp, phải đào thật mạnh để mau tìm thấy. Thế nhưng, trong hoàn cảnh này, các đồng đội lại sợ vướng phải Cúc, sợ Cúc đau, cho nên “nhát cuốc chùng” là vì vậy. Không phải là tôi làm thơ, mà là tiếng khóc, lời “gọi hồn” đồng đội, gào thét từ gan ruột đau thấu tâm can”, nhà thơ Yến Thanh nghẹn ngào nhớ lại. Sau khi viết xong bài thơ, nhà thơ Yến Thanh chưa dám công bố, bởi sợ bị cho là tình cảm yếu đuối. Khoảng 8 giờ sáng ngày 26/7/1968, khi cùng đơn vị ra thắp hương để tiếp tục tìm kiếm Hồ Thị Cúc, ông đã lẩm nhẩm đọc kh bài thơ rồi hóa luôn bài thơ bên hố bom. Đến khoảng 10 giờ, thi thể Cúc đã được tìm thấy. “Cúc được tìm thấy trong tư thế quỳ, trong chiếc hầm tròn chiều hôm trước do tay Cúc đào. Nón trên đầu Cúc bẹp dí, vai còn vác cái cuốc. Hai tay Cúc bầm dập, máu đọng lại đã khô. Có l , sau khi bom vùi lấp Cúc vẫn còn sống, đã cố gắng đào bới đất để thoát ra, nhưng trước khối lượng đất đá quá lớn, Cúc đã không thể làm gì được”, nhà thơ Yến Thanh xúc động. Bài thơ “Cúc ơi” sau đó đã được đọc trên chương trình Tiếng thơ” của Đài Tiếng nói Việt Nam vào đêm một đêm tháng 8/1968 với giọng đọc của nghệ sĩ Văn Thành. Thế nhưng, phải đến năm 1997, sau khi bộ phim “Ngã ba Đồng Lộc” của đạo diễn Lưu Trọng Ninh được công chiếu, trong đó bài thơ “Cúc ơi” được đưa vào đoạn kết bộ phim, bài thơ mới được nhiều người biết tới. Cùng với việc bài thơ được lồng vào phần thuyết minh của các hướng dẫn viên khi người dân tới thăm Nghĩa trang Đồng Lộc, “Cúc ơi” dần nổi tiếng. Bài thơ cũng được 5 nhạc sĩ phổ nhạc, trong đó, ca khúc “Cúc ơi” của nhạc sĩ Bùi Hăng Ry được giải Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi sáng tác ca khúc về 10 anh hùng, liệt sĩ Ngã Ba Đồng Lộc; và ca khúc “Em ở nơi mô” của nhạc sĩ Võ Công Diên đoạt giải Ba. Giai đoạn hào hùng, “tiếng hát át tiếng bom” Nhìn lại cuộc chiến tranh đã qua đi, nhà thơ Yến Thanh cho hay, lúc đó, không lực Hoa Kỳ mạnh m và hiện đại với máy bay quần thảo trên trời, vũ khí tối tân, còn những thanh niên xung phong thì ở dưới mặt đất với xẻng, cuốc… những vật dụng thô sơ. Để chiến thắng được kẻ thù, không chỉ có mặt trận quân sự, mà quan trọng hơn là mặt trận văn hóa. Ở mặt trận Ngã ba Đồng Lộc khi đó, có một đội văn nghệ xung kích của Tổng đội thanh niên xung phong cũng như đội văn nghệ xung kích của ngành giao thông vận tải Hà Tĩnh với phong trào “tiếng hát át tiếng bom”. Trong đó, nhà thơ Yến Thanh là người sáng tác nhiều nhất. Ngoài các bài hát nổi tiếng thời đó như “Vui mở đường”. “Cô gái mở đường”, “Đường Trường Sơn xe anh qua”, “Tôi người lái xe”, các tiết mục của ông thiết kế ngày đó gồm thơ, múa… đã đẩy mạnh phong trào “tiếng hát át tiếng bom”, đi biểu diễn nhiều nơi. Đêm đêm trên hiện trường, vừa mở đường, vừa hò hát làm cho thanh niên xung phong yêu đời và đỡ sợ. “Nói thật, Ngã ba Đồng Lộc những năm ấy bom như khoai, đạn như trấu vãi, không ai dám một mình dám đi ra nơi này. Thế nhưng, nếu có hàng trăm, hàng ngàn cô gái trẻ vừa đi vừa hát “Em đi san rừng em đi bạt núi, em như con suối nước chảy không ngừng” thì không sợ chết nữa. Mà dù có hy sinh, được dâng hiến tuổi xuân mình cho đất nước cũng thật vẻ vang”, nhà thơ Yến Thanh nói. Từ đó, theo nhà thơ Yến Thanh, mặt trận văn hóa có ý nghĩa rất lớn, nó tựa như một chiếc đòn bẩy, nâng cao lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng của thanh niên ngày đó, làm nên chiến thắng rực rỡ của chúng ta sau này. Nhà thơ Yến Thanh cho rằng, dù trong hoàn cảnh nào, mặt trận văn hóa cũng là mặt trận hàng đầu. Ngày nay, thế hệ trẻ có nhiều thuận lợi so với các thế hệ cha ông về đời sống, điều kiện học hành. Tuy nhiên, cùng với đó là những cám dỗ. Nhà thơ Yến Thanh mong lớp trẻ nhận ra lý tưởng sống, làm sao để có nhiều đóng góp cho đất nước. “Với tôi, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là một tấm gương lớn, sáng ngời cả về trí tuệ và nhân cách, một đời phụng sự vì dân, vì nước”, nhà thơ Yến Thanh bày tỏ. Nhà thơ Yến Thanh bên bia đá khắc bài thơ Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc của Nhà thơ Vương Trọng - Ảnh: NVCC
RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==