Xuân Ất Tỵ - 2025 25 KÍNH ĐA TRÒNG thay đổi sẽ dẫn tới tâm lý lo lắng, tăng thêm áp lực. “Con trai tôi học tốt các môn Khoa học tự nhiên, lên lớp 10 sẽ chọn tổ hợp này. Cháu học đuối môn xã hội nên rất lo lắng. Giả sử thi tổ hợp vào đúng các môn con học không tốt, thì con sẽ rất áp lực. Nên chốt luôn thi 3 môn Văn, Toán, Anh sẽ tốt hơn cho học sinh, bởi môn tiếng Anh rất quan trọng”, chị Thu Hà (Nam Từ Liêm, Hà Nội) cho hay. TS Nguyễn Tùng Lâm, Chủ tịch Hội đồng giáo dục Trường THPT Đinh Tiên Hoàng cho rằng, đối với cấp THCS, học sinh phải học toàn diện, không bỏ môn nào. Việc lựa chọn thi môn thứ 3 là buộc học sinh phải học, bởi không thi thì sẽ không học. Cha mẹ muốn bớt môn thi để cho con học nhẹ nhàng, chỉ tìm cái dễ để thi chứ không vì phát triển bản thân của con là không đúng. “Không nên để học sinh ngồi chờ, ngồi đoán gây tâm lý không tốt cho các em. Môn thi thứ ba là môn trắc nghiệm tổng hợp của tất cả các môn còn lại, như Lý, Hóa, Sinh, Sử, Địa, GDCD. Đề thi phải sát với đối tượng học sinh, có độ phân hóa, không phải theo bệnh thành tích, bớt xén chương trình” TS Nguyễn Tùng Lâm bày tỏ. Đồng quan điểm, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương ủng hộ việc bốc thăm môn thi thứ 3 vào lớp 10. Là phụ huynh, đương nhiên mong muốn phương án an toàn, cứ theo 3 môn Văn, Toán Anh và tập trung học để thi 3 môn này. Tuy nhiên, dễ có nguy cơ các môn khác trở thành môn học phụ hết. “Nếu chúng ta chốt “cứng” 3 môn thi Toán, Văn, Anh, học sinh và cả phụ huynh không quan tâm tới các môn khác nữa, vì có thi đâu. Cách đánh giá chung hiện nay vẫn là chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục bằng tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường THPT, thậm chí là THPT công lập, mới có hiện tượng giáo viên vận động phụ huynh không để cho các con có lực học trung bình thi đăng ký thi vào lớp 10 THPT công lập, vì sợ ảnh hưởng tới thành tích chung của Trường, nên học sinh lại càng chỉ tập trung vào môn thi… … Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục là phải đổi mới rất nhiều khâu, nhiều thứ, chứ không phải chỉ là sách giáo khoa và chương trình”, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga phân tích. Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, tất cả các môn học trong chương trình giáo dục phổ thông, đặc biệt là THCS, không chỉ cung cấp kiến thức nền cho mỗi cá nhân, mà còn góp phần hình thành nhân cách của mỗi con người. Đừng cho rằng việc phải học là lãng phí, mất thời gian. Đối với việc học, không có kiến thức nào là phí cả. “Trước bất kỳ một sự đổi mới nào, có rất nhiều ý kiến trái chiều, thậm chí, như một tư duy tự nhiên, con người hay phản ứng hơi thái quá với cái mới. Tâm lý chung cảm thấy an toàn khi đi con đường cũ, ngần ngại bước trên đường mới”, đại biểu tỉnh Hải Dương nói. Hiện, dư luận đặt vấn đề: Việc học sinh phải học đều các môn để đáp ứng điều kiện thi theo chương trình mới, tất nhiên, vốn kiến thức rộng hơn sách giáo khoa, làm tăng áp lực phải đi học thêm, dù đã học kín lịch. Việc tăng tỷ lệ sử dụng kết quả đánh giá quá trình học tập ở cả lớp 10, 11 và 12 lên 50% (trước đây là 30% và chỉ sử dụng kết quả lớp 12) sẽ gia tăng nguy cơ “làm đẹp” học bạ và “chạy điểm” ở các nhà trường, tăng áp lực lên những học sinh “học thật, thi thật”. Giải đáp vấn đề trên, TS Lê Viết Khuyến, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học (Bộ GD&ĐT), Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho rằng, mục đích Bộ GD&ĐT tăng tỷ lệ sử dụng điểm đánh giá quá trình (học bạ) từ 30 lên 50% nhằm đánh giá sát hơn năng lực người học theo chương trình giáo dục phổ thông 2018. Điểm học bạ các năm lớp 10, lớp 11 được sử dụng (với trọng số nhỏ hơn của lớp 12) thay vì chỉ của lớp 12 như trước đây nhằm thúc đẩy việc dạy và học ngay từ khi học sinh bước vào bậc học THPT. Rõ ràng, việc tính 50% điểm trung bình 3 năm lớp 10,11,12 sẽ đánh giá toàn bộ năng lực người học trong suốt 3 năm theo chương trình giáo dục phổ thông mới hơn là chỉ đánh giá điểm của 1 năm lớp 12. Kỳ thi tốt nghiệp THPT có hạn chế là không phải thi tất cả các môn mà chỉ thi một số môn đại diện. Do đó, phương án lấy điểm trung bình của 3 năm học bạ kết hợp với điểm thi một số môn là hợp lý. Tuy nhiên, tỷ lệ tương quan giữa 2 thành phần điểm này cần phải thay đổi. Khi ở Việt Nam văn hóa chất lượng chưa hình thành, những tệ nạn tiêu cực trong dạy học, thi cử vẫn tràn lan, trọng số điểm học bạ phải thấp hơn 50% thì phù hợp hơn. “Khi văn hóa chất lượng chưa hình thành và những tệ nạn, gian lận, tiêu cực trong dạy học, thi cử vẫn tràn lan, việc đưa ra trọng số 50/50 cần phải cân nhắc, thận trọng. T50/50 là hơi lạc quan”, ông Khuyến nhấn mạnh. Làm sao để giảm áp lực thi cử? Chỉ còn vài tháng nữa, các thi sinh sẽ bước vào những kỳ thi cam go, được cho là “phép thử” này. Trong giai đoạn “nước rút”, nhiều học sinh bắt đầu chạy đua với thời gian. PGS. TS Trần Thành Nam, Chủ nhiệm Khoa Khoa học giáo dục, Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội), Phó chủ tịch Hội Khoa học tâm lý - giáo dục Việt Nam khuyên, trong giai đoạn căng thẳng ôn tập, các thí sinh cần có chế độ dinh dưỡng, ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý để có sức khỏe, tinh thần tốt. Trong đó, giấc ngủ rất quan trọng, các em cần ngủ đủ. Đối với việc học tập, ưu tiên học chất lượng chứ không phải học thời gian dài. Các em hãy chọn khoảng thời gian học tốt nhất để học những môn khó nhất. Khi cảm thấy mệt, cần nghỉ ngơi, không nên học liên tục. Nên có khoảng thời gian đứng dậy vận động trong các khoảng nghỉ. Trong giai đoạn ôn thi và khi đi thi, một số học sinh thường bị rối loạn lo lâu, bị lo lắng quá mức. Càng lo thì học lại càng không vào. Các em nên biến việc học thành thói quen. “Như vậy, sẽ không bị mệt và học hiệu quả hơn”, ông Nam nói. Thầy Nguyễn Cao Cường, Hiệu trưởng Trường THCS Thái Thịnh (quận Đống Đa, Hà Nội) chia sẻ, mỗi ngày học sinh cần có thời gian tự học ít nhất là từ 2-3 giờ. “Trí nhớ tốt không bằng nét mực mờ, các em không chỉ nghe các thầy cô giảng, đọc tài liệu, mà phải cầm bút luyện tập, làm bài. Các em phải làm được các bài tập môn Ngữ văn, giải được các đề ôn tập môn tiếng Anh, môn Toán; thậm chí làm lại những bài mà các thầy cô đã hướng dẫn để ghi lại trên vỏ não lần 2, giúp các em có thể nhớ lâu, vững vàng về kỹ năng làm bài”, thầy Cường lưu ý. Một điều cũng rất quan trọng là cha mẹ cần đồng hành cùng con, cùng con phân chia thời gian biểu trong một tuần cho từng môn học, phối hợp với thầy cô giáo để nắm được diễn biến quá trình học tập của con. Cần tính toán lịch học cho con vừa sức, làm sao để học sinh có thời gian đủ lớn để tự học ở nhà, tránh “ép” con đi học thêm quá nhiều gây mệt mỏi, không hiệu quả. Các phụ huynh không nên giao những chỉ tiêu, đích đến, chất thêm sự căng thẳng, áp lực đối với các em. Thay vào đó, nên động viên con cố gắng, nỗ lực để đạt được kết quả tốt nhất. “Nhiều học sinh trong giai đoạn gần kỳ thi có những tiến bộ vượt bậc, nhưng cũng có những trường hợp không như kỳ vọng. Tâm lý, sự đồng hành của cha mẹ rất quan trọng với thí sinh”, thầy Cường nói. Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ thị tăng cường phối hợp, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT 2025 Chỉ thị về tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp tổ chức kỳ thi tốt thiệp THPT và tuyển sinh đại học, giáo dục nghề nghiệp năm 2025 nêu rõ năm đầu tiên tổ chức kỳ thi và tuyển sinh theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Thủ tướng cũng yêu cầu UBND các tỉnh, thành chịu trách nhiệm toàn diện về công tác chuẩn bị, tổ chức kỳ thi tại địa phương. Trong đó tập trung chỉ đạo sở GD&ĐT thực hiện kế hoạch dạy và học, ôn tập, kiểm tra, đánh giá học sinh bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Thủ tướng chỉ đạo và tổ chức thanh tra, kiểm tra hoạt động dạy học và thi trên địa bàn theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT và các cơ quan bảo đảm an toàn, nghiêm túc, giảm áp lực… 5 lần cải cách và đổi mới giáo dục ở Việt Nam Cuộc cải cách giáo dục đầu tiên năm 1950: Năm 1950 hệ thống giáo dục chuyển từ phân ban tú tài cũ sang hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm, gồm 3 cấp: Cấp I: 4 năm (lớp 1-4 thay thế cho bậc tiểu học cũ 6 năm, không kể một năm lớp ấu trĩ hay vỡ lòng). Cấp II: 3 năm (lớp 5-7 thay thế cho bậc trung học đệ nhất cũ 4 năm). Cấp III: 2 năm (lớp 8-9 thay thế cho bậc trung học chuyên khoa 3 năm). Cuối năm lớp 9, học sinh mới phải trải qua một kỳ thi tốt nghiệp. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ 2, năm 1956: Từ năm 1956 đến năm 1976, tại miền Bắc Việt Nam, theo Nghị định 596 ngày 30/8/1956 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, các trường phổ thông sẽ tổ chức theo hệ thống trường phổ thông 10 năm. Hệ thống trường phổ thông 10 năm chia làm 3 cấp học. Hai hệ thống giáo dục cũ được sáp nhập thành một hệ thống giáo dục mới 10 năm, gồm ba cấp: Cấp I: 4 năm, từ lớp 1 đến lớp 4. Cấp II: 3 năm, từ lớp 5 đến lớp 7. Cấp III: 3 năm, từ lớp 8 đến lớp 10 Chương trình, sách giáo khoa chủ yếu là sao chép lại của các nước xã hội chủ nghĩa. Cuộc cải cách lần thứ 3: Năm 1976, khi hai miền Nam và Bắc thống nhất năm 1976, tồn tại hai hệ thống giáo dục song hành: Miền Bắc tiếp tục hệ 10 năm và miền Nam giữ hệ 12 năm từ năm 1976 đến năm 1981. Cuộc cải cách lần thứ 4: năm 1981: Áp dụng hệ 11 năm cho miền Bắc (thêm lớp 5). Năm 19921993, hệ thống 11 năm phổ thông của miền Bắc được thay đổi từ 11 năm sang 12 năm (thêm lớp 9). Từ đó đến nay toàn bộ hệ thống là 12 năm thống nhất cả nước. Cùng với đó là đổi mới chương trình sách giáo khoa và cải tiến chữ viết. Do dư luận xã hội phản ứng mạnh, ngành giáo dục dần quay lại chữ viết cũ. Cuộc cải cách lần thứ 5: Từ năm 2000: Chương trình giáo dục phổ thông được đổi mới, kéo theo việc thay đổi sách giáo khoa toàn bộ cho khối phổ thông, áp dụng từ năm học 2002-2003, thực hiện cuốn chiếu đồng thời từ khối lớp 1 và lớp 6, hoàn tất vào năm học 2008-2009. Đây là lần đổi mới sách giáo khoa được coi là “bài bản nhất” kể từ sau Cách mạng tháng 8. Nghị quyết số 686/NQ-UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ rõ: Giáo dục còn nhiều hạn chế trong thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Nội dung kiến thức của một số môn học, bài học chưa thực sự được tinh giản, còn gây áp lực đối với học sinh. TS Nguyễn Tùng Lâm Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga PGS. TS Trần Thành Nam
RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==