Khoa học và Đời sống XUÂN ẤT TỴ 2025

Xuân Ất Tỵ - 2025 15 GÓC NHÌN TÂN XUÂN CƠ HỘI, THÁCH THỨC DOANH NGHIỆP VIỆT TRÊN ĐƯỜNG ĐUA NET ZERO Trao đổi với Khoa học và Đời sống/Báo Tri thức và Cuộc sống, GS.TS Hoàng Xuân Cơ, Trưởng ban Khoa học VIASEE cho rằng, doanh nghiệp chính là người thực hiện việc giảm phát thải bởi chính họ là người phát thải. Tuy nhiên, thực tế doanh nghiệp lấy lời lãi làm động lực để phấn đấu, làm thế nào để bớt chi phí, kể cả các chi phí được yêu cầu. Khi nói về trách nhiệm, doanh nghiệp thừa nhận nhưng nếu không có sự vào cuộc của cơ quan nhà nước với các yêu cầu pháp luật đi kèm và không có áp lực từ các thị trường khó tính như châu Âu với các quy định khắt khe, thì các doanh nghiệp cũng không làm. Theo GS.TS Hoàng Xuân Cơ, doanh nghiệp nào làm tốt, có cơ hội nhưng thách thức sẽ đến với các doanh nghiệp biết mà không chịu làm, nếu không làm nhanh chóng, sẽ phải chịu áp lực, thách thức rất lớn. Cơ hội lớn nhất đối với các doanh nghiệp là chứng minh được rằng, họ đang tiến hành các công việc nhằm cắt giảm phát thải, thì họ sẽ được Nhà nước, thế giới và người tiêu dùng đề cao. Họ có thể hoạt động lâu dài. Lúc đầu, họ có thể phải chi phí lớn. Tuy nhiên, họ vẫn cầm chừng, vừa làm vừa nghe ngóng. Nhà nước có yêu cầu hay không, người tiêu dùng có ý kiến hay không. Doanh nghiệp có độ lì nhất định, nếu không làm ráo riết cũng chỉ ở mức vừa phải. “Muốn hay không muốn, phải tạo áp lực với các doanh nghiệp. Có doanh nghiệp thực hiện vì họ biết trước sau cũng phải thực hiện nên làm sớm, có những chiến lược đi đúng hướng, nắm bắt được xu thế”, GS.TS Hoàng Xuân Cơ nêu ý kiến. GS.TS Hoàng Xuân Cơ cho rằng, các ngành phát thải lớn như sản xuất năng lượng, đặc biệt là sản xuất điện, nhiệt điện,... hay sản xuất xi măng, ngành thép, ngành hóa chất, cần thiết chuyển đổi sang phương thức mới, sử dụng năng lượng tái tạo, đồng thời lập báo cáo môi trường chi tiết việc phát thải carbon để có kế hoạch chuyển đổi hiệu quả. phải là câu chuyện về động lực kinh tế, mà nó chắc chắn được tạo ra khi chúng ta nhận thấy phải có cách tiếp cận mới trong ứng dụng khoa học và công nghệ để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Theo ông Nguyễn Hoa Cương, cần nhận diện thách thức đặt ra đối với Việt Nam. Chúng ta không nói về câu chuyện kinh tế số, kinh tế xanh đơn lẻ mà nói về chuyển đổi kép. Xanh và số, hai yếu tố này phải gắn chặt với nhau. Các khó khăn hiện nay với Việt Nam, là nguồn lực: khung pháp lý, nhân lực, vai trò của khu vực công, thực thi chính sách...Đây là những vấn đề căn cơ trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Cơ chế thông thoáng…. nâng tầm giá trị doanh nghiệp PGS.TS Nguyễn Đình Thọ chỉ ra những yếu tố giúp Việt Nam thành công trong việc chuyển đổi sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn bao gồm: thứ nhất là thể chế, cần được ưu tiên số 1, thứ hai là hạ tầng, thứ ba là tài chính xanh, thứ tư là công nghệ xanh, và cuối cùng là năng lượng xanh… Về thể chế chính sách, rất nỗ lực khi lồng ghép kinh tế tuần hoàn vào trong luật Bảo vệ môi trường và là một trong những nước đi đầu trong khu vực. Về hạ tầng xanh, nước ta ở mức thấp so với thế giới do chúng ta đang ở trình độ phát triển, đứng ở vị trí 94/160. Những khó khăn đối với việc chuyển đổi xanh, chuyển đổi tuần hoàn, chuyển đổi carbon thấp vẫn là rất lớn. Quy mô nền kinh tế xanh vẫn ở mức 2%, trong khi 98% còn lại vẫn là kinh tế “nâu”. Theo PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, các nhà khoa học trao đổi về vấn chuyển đổi xanh của các nước Chuyển đổi xanh là một phương thức phát triển kinh tế quan tâm đến vấn đề môi trường và tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Nhiều quốc gia phát triển vận dụng tăng trưởng xanh trong mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia và đạt được những thành tựu lớn. Mỹ dẫn đầu kinh tế xanh toàn cầu Là quốc gia sớm tiếp cận với mục tiêu xanh hóa nền kinh tế, dẫn đầu kinh tế xanh toàn cầu, Chính phủ Mỹ thực hiện các mục tiêu giảm phát trong dài hạn, triển khai các chính sách phát triển kinh tế xanh thông qua việc thực hiện tiết kiệm năng lượng kết hợp với chính sách năng lượng tái tạo. Từ sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, Chính phủ Mỹ phải chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững, thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế xanh, nghĩa là tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. Trong chiến lược tái công nghiệp hóa cho giai đoạn 10 năm nhằm phát triển công nghệ mới, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mỹ muốn trở thành nước đi đầu trong công nghệ sạch, với hướng tiếp cận mới theo “kinh tế carbon thấp”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính được thể hiện trong một số đạo luật đang được đưa ra bàn thảo để đi đến quyết định ban hành. Mỹ luôn lấy tiêu chí hiệu quả kinh tế để thực thi chính sách, động lực thị trường thúc đẩy đổi mới công nghệ, thực thi bảo vệ môi trường có khoa học và kế hoạch rõ ràng theo từng giai đoạn cụ thể. Trung Quốc phát triển theo hướng carbon thấp và tăng trưởng xanh Là một quốc gia đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, Trung Quốc phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường, hệ sinh thái suy giảm nghiêm trọng, thiếu hụt lớn nguồn tài nguyên và năng lượng cho phát triển kinh tế. Trung Quốc phải chuyển dịch từ phương thức phát triển kinh tế tiêu hao nhiều tài nguyên sang phương thức tiết kiệm tài nguyên, nhấn mạnh bảo vệ môi trường và GDP xanh, khuyến khích đổi mới kỹ thuật, sản xuất xanh và phát triển bền vững. Chính quyền Bắc Kinh hướng tới nền kinh tế xanh, phát triển theo hướng carbon thấp và tăng trưởng xanh, với kỳ vọng tạo ra sức cạnh tranh của các ngành sản xuất trên thị trường thế giới, như: xây dựng hệ thống thuế xanh, đặc biệt chú ý đến các chính sách tín dụng xanh, phát triển trái phiếu xanh. Thông qua việc cho phép phát triển các khu công nghệ cao, Trung Quốc đã ban hành nhiều quy định và luật lệ liên quan như quy định về phạm vi các lĩnh vực khoa học, công nghệ cao được phát triển, các ngành công nghệ thay thế khác cho các ngành công nghiệp truyền thống. Các nước Tây Âu và Nhật Bản thúc đẩy các ngành sản xuất sạch… ra đời tiêu chuẩn “dấu chân carbon” Ở các nước Tây Âu và Nhật Bản, xu hướng phát triển hướng tới nền kinh tế xanh, với lộ trình thực hiện và thúc đẩy các ngành sản xuất sạch và carbon thấp mới hình thành. Trong hệ thống kinh tế toàn cầu của nhóm nước công nghiệp phát triển (OECD), Tây Âu ra sức thúc đẩy đưa các chỉ tiêu về carbon thấp vào hệ thống quy định quốc tế, với sự ra đời của tiêu chuẩn chứng nhận quốc tế về “dấu chân carbon”, mở màn cho quá trình này. Nhật Bản tích cực xu hướng giảm thiểu carbon thông qua Nghị định thư Kyoto, thực hiện triệt để 3R và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Từ cuối năm 2009, Nhật Bản phát động chiến lược tăng trưởng mới, tập trung vào hai ngành công nghiệp mới là ngành môi trường và năng lượng, ngành y tế… Với mục tiêu trở thành quốc gia “xanh nhất thế giới”, Đan Mạch có chiến lược tăng trưởng xanh đến năm 2035; tập trung vào việc chuyển từ nhiên liệu năng lượng hóa thạch sang đầu tư vào công nghệ xanh, năng lượng xanh, hạn chế phát thải khí nhà kính (GHG). Đan Mạch nỗ lực khai thác tốt hơn các quan hệ, tương tác với các chính sách của EU và quốc tế, tìm ra phương pháp thích hợp để áp dụng công nghệ xanh, giảm lượng khí thải CO2 trong các lĩnh vực không nằm trong chương trình thương mại khí thải của EU… Từ kinh nghiệm của các nước thành công về kinh tế xanh, Việt Nam có thể học tập và sáng tạo trong xây dựng chính sách phát triển cơ cấu ngành, nghề và điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình chính trị, xã hội, vị trí địa lý và nền văn hóa của đất nước. đề tập trung nguồn lực chuyển nền kinh tế từ “nâu” sang “xanh”. Nguyên tắc của kinh doanh cho thấy, sử dụng 20% nguồn lực để tạo ra được 80% kết quả. Hiện, nước ta gặp không ít khó khăn về việc tăng cường năng lực, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực và con người, về khả năng tiếp cận công nghệ và khả năng tiếp cận vốn xanh. Nếu không khắc phục được điều này, các nước khác trên thế giới sẽ tiếp cận nguồn tài chính khí hậu khổng lồ mà thế giới đang dành cho các nước đang phát triển. PGS.TS Nguyễn Đình Thọ nhấn mạnh, Việt Nam cần có những biện pháp hỗ trợ ưu đãi, đặc biệt thông qua phát hành trái phiếu xanh, tín dụng xanh, mua sắm xanh, thuế phí ưu đãi xanh, đồng thời cần có những ưu đãi về đất đai và tất cả những ưu đãi khác trong mua sắm xanh. Để phát triển kinh tế xanh gắn với phát triển bền vững, Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống chính sách về phát triển kinh tế xanh để tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của doanh nghiệp vào nền kinh tế xanh và hưởng lợi từ mô hình này. Xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xanh, xây dựng cơ cấu nền kinh tế xanh với ba trụ cột nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ; Chính phủ cần đầu tư nguồn lực nhiều hơn vào phát triển, ứng dụng công nghệ cao, phát triển năng lượng; thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào quá trình chuyển dịch sang tăng trưởng xanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư có quy mô lớn, hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường, học tập kinh nghiệm phát triển xanh của các quốc gia tiên tiếp để áp dụng vào Việt Nam.

RkJQdWJsaXNoZXIy MTYzNTY5OA==